
1. Từ ngày 30/10/2022, bổ sung hình thức nộp trực tuyến hồ sơ cấp lại GCN kinh doanh khai thác cảng biển qua cổng dịch vụ công
Ngày 30/10/2022, Nghị định 69/2022/NĐ-CP ngày 23/9/2022 của Chính Phủ chính thức có hiệu lực. Nghị định này sửa đổi một số điều của Nghị định 37/2017/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh khai thác cảng biển.
Trong đó, bổ sung hình thức nộp hồ sơ cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh khai thác cảng biển thông qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến cụ thể như sau:
Nghị định 37/2017/NĐ-CP | |
|
Tới Cục Hàng hải Việt Nam |
Hồ sơ cũng được cập nhật như sau:
Nghị định 37/2017/NĐ-CP | |
|
|
Nghị định 69/2022/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 30/10/2022.
2. Bổ sung hình thức nộp trực tuyến hồ sơ trực tuyến qua cổng dịch vụ công đối với nhiều thủ tục hành chính trong hoạt động kinh doanh lĩnh vực hàng hải
Nghị định 69/2022/NĐ-CP ngày 23/9/2022 của Chính Phủ chính thức có hiệu lực kể từ ngày 30/10/2022 theo đó rất nhiều thủ tục hành chính trong lĩnh vực kinh doanh hàng hải được bổ sung hình thức nộp hồ sơ trực tuyến qua cổng dịch vụ công như sau:
3. 07 loại ấn chỉ thuế không còn giá trị sử dụng
4. Bổ sung 04 Án lệ, nâng tổng số Án lệ lên 56
Ngày 14/10/2022, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định 323/QĐ-CA, bổ sung 04 án lệ được áp dụng kể từ ngày 15/11/2022 như sau:
a) Án lệ số 53/2022/AL về việc hủy việc kết hôn trái pháp luật
Quyết định giám đốc thẩm số 04/2021/HNGĐ-GĐT ngày 07/7/2021 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về việc dân sự “Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật”; người yêu cầu là bà Nguyễn Thị S, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 03 người.
Nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực),không đăng ký kết hôn, có tổ chức lễ cưới và có thời gian chung sống tại Việt Nam. Sau đó, hai bên ra nước ngoài sinh sống và phát sinh mâu thuẫn. Khi chưa giải quyết ly hôn thì một bên đăng ký kết hôn với người khác tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
Trường hợp này, Toà án phải xác định quan hệ hôn nhân đầu tiên là hôn nhân thực tế. Khi chưa chấm dứt quan hệ hôn nhân thực tế mà một bên đăng ký kết hôn với người khác tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam thì việc kết hôn này là trái pháp luật. Tòa án chấp nhận yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
b) Án lệ số 54/2022/AL về xác định quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong trường hợp người mẹ không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
Quyết định giám đốc thẩm số 01/2014/HNGĐ-GĐT ngày 27/02/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về vụ án hôn nhân gia đình “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” tại tỉnh Đắk Lắk giữa nguyên đơn là chị Phạm Thị Kiều K với bị đơn là anh Nguyễn Hữu P.
Trong vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người mẹ tự ý bỏ đi từ khi con còn rất nhỏ, không quan tâm đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; người con được người cha nuôi dưỡng, chăm sóc trong điều kiện tốt và đã quen với điều kiện, môi trường sống đó.
Trường hợp này, Tòa án phải tiếp tục giao con dưới 36 tháng tuổi cho người cha trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.
c) Án lệ số 55/2022/AL về công nhận hiệu lực của hợp đồng vi phạm điều kiện về hình thức
Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2012/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Võ Sĩ M với bị đơn là ông Đoàn C; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 05 người.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày 01/01/2017 chưa được công chứng/chứng thực nhưng bên nhận chuyển nhượng đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ của mình.
Trường hợp này, Tòa án công nhận hiệu lực của hợp đồng.
d) Án lệ số 56/2022/AL về việc giải quyết tranh chấp di dời mồ mả
Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2014/DS-ST ngày 18/11/2013 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang về vụ án “Tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi ngăn cản di dời mồ mả” giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Thu V với bị đơn là anh Vương Minh T, anh Vương Minh H.
Người chồng chết, người vợ nhờ chôn cất người chồng trên phần đất của người thân bên nhà chồng. Sau đó, người vợ muốn di dời phần mộ của người chồng về đất của gia đình mình thì phát sinh tranh chấp.
Trường hợp này, Tòa án phải xác định người vợ có quyền di dời mồ mả của người chồng để quản lý, chăm sóc.